Tử Vi Đấu Số Toàn Thư - Vũ Tài Lục


Lời Tác Giả
    Cuốn sách này được làm thành, đại bộ phận dịch từ tập : / Tử Vi đẩu số toàn thư / của Hi Di Trần Đoàn tiên sinh do La Hồng Tiên biên soạn, do nhà xuất bản Trúc Lâm An Thư Cục ấn hành tại Đài Loan.

   Phần bình chú qua tham khảo các sách Tử Vi Xiến Vi của Trương Huy Văn, Chiêm Tinh Thuật của Hoàng Tiểu Nga, Mệnh Lý Huyền Vi của Vô Nhai Cư Sĩ, Trích Thiên Tuỷ của Lưu Bá On,  Mệnh  Lý  Giảng  Nghĩa  của  Vi  Thiên  Lý,  Hám  Long  Kinh  của  Dương  Quân  Tùng,  Tạo  Hoá Nguyên Thược của Nhiệm Thiết Tiều, Mệnh Lý Chính Tôn của Thần Phong Khảo, Uyên Hải Từ Bình của Từ Tử Bình, Quỷ Cốc Toán Mệnh Thuật …

    Phần phú nôm để đối chiếu, chúng tôi trích dẫn từ việc ghi chép công phu của Tử Vi Ao Bích của Việt Viêm Tử và Tử Vi Thực Hành của Dịch Lý Huyền Cơ.

 Dẫn

    Khổng Tử làm quan ở nước Lỗ khiến cho Lỗ trở nên cường thịnh. Tề quốc sợ Lỗ mạnh sẽ xâm lăng, Tề mới dùng kế ly gián vua Lỗ với đám quần thần tài giỏi bằng cách tuyển 80 mỹ nữ cho ăn mặc lụa gấm, học tập ca vũ, đem biếu vua Lỗ. Quả nhiên, Lỗ công mê đắm nữ sắc ba bốn ngày không ra triều đình nghe chính sự. Khổng tử từ chức bỏ đi sang nước Vệ. Vệ che không dùng. Sang nước Tần, vừa vượt qua Khuông thành, vì diện mạo Khổng Tử giống hệt tên Dương Hồ, một kẻ cướp khét  tiếng  trong  vùng,  quan  quân  và  dân  chúng  vừa  trong  thấy  là  hè  nhau  đuổi  đánh,  thầy  trò Khổng Tử bị một phen thất điên bát đảo. Bỏ Tần qua Tống quốc. Có quan Tư Mã vốn vẫn ghét đạo lý Khổng Khâu, rình lúc thầy Khổng giảng lễ dưới gốc cây cổ thụ, cho người chặt cây đổ để ám hại, may sao Khổng Tử thoát chết nhưng lại phải rời nước Tống đến Trịnh quốc. Thầy đi trước, trò tới sau. Tại nước Trịnh, Khổng Tử đứng chờ nơi cửa Đông. Các trò tìm thầy, hỏi thăm người Trịnh nói  :  /  Cửa  Đông  có  một  người,  trán  cao  giống  vua  Nghiêu,  cổ  giống  cổ  ông  Cao  Dao,  lưng giống lưng ông Tử Sản, nhưng dáng dấp lơ láo như con chó  mất chủ ( táng gia chi cẩu) /.

   Học trò theo chỉ dẫn tìm đến nơi quả đúng là Khổng Khâu, thuật lại lời người Trịnh cho thầy nghe. Khổng Tử cười mà rằng :
- Hắn nói thể mạo của ta giống các bậc cao hiền thời xưa chẳng có gì đúng, nhưng hắn tả dáng dấp ta như con chó mất chủ thì thất không sai chút nào.Khổng Phu Tử đời sau được tôn làm vạn thế sư biểu, nhưng lúc sinh thời, ông luôn luôn sống trong cảnh táng gia chi cẩu.Tại sao thế?
 Khổng Phu Tử giải thích :
Đạo chi tương hành dã dư ? Mệnh dã Đạo chi tương phế dã dư ? Mệnh dã Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử.

  Nghĩa là:
 Đạo được chuộng do mệnh vậy
Đạo bị vứt bỏ cũng do mệnh vậy
Không biết thiên mệnh thì lấy điều gì chứng tỏ đức quân tử ?Bôn tẩu trải bao nhiêu vinh nhục, mãi tới ngoài năm mươi tuổi đành trở về quê cha đất tổ sao định thi thư và giảng học. Ông bảo học trò :
 - Thầy năm mươi tuổi mới biết thế nào là Thiên mệnh ( Ngô ngũ thập nhi tri thiên mệnh).
-   Câu nói này đã làm cho đạo Khổng vượt xa các đạo khác vì tính chất nhân văn tuyệt đối của nó. Khổng Khâu không muốn mọi người tôn sùng mình như một vị thánh, ông trước sau chỉ là một con người trong nhân gian cùng chịu  an bài của vận mệnh. Cái hay của Khổng đạo là ở chỗ bất dục dị ư nhân vậy.           Vào thời kỳ còn trai trẻ cường tráng, ý khí hùng mạnh anh phát, xem việc thiên hạ như ở trong tay mình muốn là được. Nếu có ai nói về hai chữ thiên mệnh,  người tuổi trẻ sẽ cười ngất mà cho là hão huyền. Khi tuổi về chiều, từng nếm nhiều cay đắng, lăn lóc đường đời, ý khí tiêu mòn, sức vóc suy yếu. Dù công thành danh toại hay công không thành danh không toại, bấy giờ chẳng ai khỏi không thở dài mà tự nhủ : - Cuộc đời là số mệnh !
- Có lưu lạc mới biết mùi trần thế

    Còn trần ai không tỏ mặt công hầu Ngất ngưởng thay con tạo khéo cơ cầu Muốn đại thụ hãy dìm cho lúng túng Thân hệ bang gia chung hữu dụng Thiên sinh hào kiệt bất ưng hư Hãy bền lòng chớ chút oán vưu Thời chi hĩ ngư Long biến hoá Thôi đã biết cùng thông là mệnh cả Cũng đừng đem hình dịch cầu chi Hơn nhau cũng một chữ thì.
( Thơ Cao Bá Quát)

    Đó là thảm kịch của nhân gian nhưng chính thảm kịch đó đưa nhân  loại thăng hoa. Huyền thoại Hy Lạp kể :
   Vua xứ Lydie là Croisos rất giàu, cai trị một quốc gia rất mạnh, vàng bạc châu báu trên thế  giới  đều  vào  tay  nhà  vua,  triều  thần  nhiều  người  tài  giỏi.  Nhà  hiền  triết  Solon  vào  yết  kiến Croisos, nhà  vua cho trần thiết huy hoàng để đón tiếp. Bước vào lâu đài, Solon chẳng mảy may lưu tâm đến sự tráng lệ. Vua Croisos bực lắm mới  hỏi :
- Theo ngài, trên đời này ai là người sung sướng nhất ?
Y vua muốn Solon sẽ nói Croisos là người sung sướng nhất. Nhưng  nhà hiền triết lại kể số mệnh vua Tellos đã bị kẻ thù đâm trúng ngực chết giữa lúc Tellos và tổ quốc của ông sống trong tuyệt đỉnh vinh quang. Rồi Solon kết luận :  “ Hàng ngàn ngày trong suốt cuộc đời người không ngày nào tuyệt đối giống ngày nào. Số mệnh trộn lẫn sướng với khổ, may với rủi cho nên không ai có thể tự cho mình hoặc bảo người khác là sướng hay khổ trước  khi sinh mạng hoàn tất “. Croisos nghe Solon nói, lòng không mấy  vui. Để được yên chí hơn, Croisos hôm sau đến đền thờ Apollon mà xin  thần thánh dạy bảo cách sống sung sướng mãn đời. Thần thánh dạy  :
-  Hỡi Croisos, con sẽ là người sung sướng mãi mãi .
- Yên lòng với lời thánh nói, Croisos tự nhủ :
Ta không bao giờ  tính sai chuyện gì, ta đâu phải là thằng điên hay chỉ biết mơ mộng  hão, ta nhìn người cũng như nhìn ta một cách sáng suốt, ta đánh trận thắng luôn luôn, ta cai trị khéo tuyệt bực. Thần thánh cũng  bảo hạnh phúc của ta không bao giờ mất .
    Nhưng  Croisos  lạc  quan  chẳng  được  bao  lâu  thì  vận  đen  nối  đuôi  nhau  ập  tới,  thua  trận Perse, thủ đô Sardes bị vây hãm vợ con vua Croisos bị bắt đi, lâu đài cung điện bị thiêu rụi. Croisos nhớ lại lời của Solon, khóc lớn mà gọi tên nhà hiền triết ba lần. Ta có thể không tin tướng mệnh học là môn học mang ý định tìm biết trước vận mệnh, tuy nhiên. Không phải vì thế mà ta không bị những sự việc thuộc về vận mạng quấy nhiễu khiến ta bại hoặc bất giải. Huyền bí nhưng lại trong thấy rõ mồn một ( mustérieux mais objectif) .
    Vậy có thể khẳng định rằng vấn đề vận mạng học là nghi vấn nhưng vấn đề vận mạng thì hẳn hoi là sự thật không hồ nghi gì nữa. Thế gian chỉ khả dĩ dùng sự thật để phủ định lý luận chứ không thể đem lý luận để phủ  định sự thật. Khoa học phát đạt đã đánh cho lung lay đến tận gốc cái quan niệm Thần của tôn giáo. Còn quan niệm vận mệnh từ trước tới giờ chưa hề bị sự tấn bộ của trí tuệ làm nó phải biến hoá. Quan niệm vận mạng đã dùng sự thật của nó cho người trí tuệ cũng như cho kẻ vô trí thừa nhận lẽ thịnh suy cát hung ở đời. Lẽ ấy khoa học nguyên tử năng, khoa học không gian chưa chứng minh giải thích được.Giáo lý tôn giáo chứng minh giải thích vận mạng bằng sự an bài do bàn tay Thượng Đế,bằng quan hệ tiền kiếp tức là tuyệt đối tuỳ thuộc vào thần quyền thì lại càng không thể chấp nhận vì nó chẳng khác gì bọn phù thuỷ đem ma quỷ lợi dụng vấn đề vận mạng. Thiên mệnh, chữ thiên đây không có nghĩa là một ông mang hình dung thiện ác đem hoạ đem phúc cho ai, thiên đây chỉ một hoàn cảnh bẩm thụ lúc vật được tạo thành, không hề có một ý bất công nào hết. Vận mạng con người phải hiểu theo quan niệm / Thiên bất tư phúc địa bất tư tải /, trời không che riêng ai, đất không chở riêng ai.Người xưa đi tìm biết vận mạng trong cái nguyên lý vũ trụ biến động bất cư gọi là dịch lý. Hoàn cảnh tự nhiên chịu theo qui định của định luật dịch đó, con người cũng thế. Thế nào là biến động bất cư ? Như kinh Dịch viết :
  Càn đạo biến hoá, các chính tính mệnh... Ví đạo dã lũ thiên, biến hoá bất cư, chu lưu lục hư, thượng hạ vô thường, cương nhu tương dịch bất khả vi điển yếu duy biến sở thích .
Nghĩa là:
-  Đạo trời biến hoá, mọi vật theo biến hoá đó mà xoay đổi tính mệnh ... Đạo chuyển rời luôn, biến hoá chứ không ở một chỗ, chan hoà khắp chốn, trên dưới vô thường, cương nhu dịch vị, không cái gì nhất định, chỉ có biến hoá mới thật là đạo trời .
- Do  lý  trên  nên  mệnh  phải  đi  đôi với vận, nếu chỉ nói mệnh không thôi nghe như là nhất thành bất biến.
Giáo sư  Tiền Mục giảng :
-  Mệnh là tính cách của người. Vận là sự tao ngộ giữa người với hoàn cảnh. Tính cách thì định trước nhưng tao ngộ thì tuỳ thời thế mà biến .
Thế cục vĩnh viễn biến động, vận mệnh con người cũng biến động không lúc nào ngừng. Sự tao ngộ làm cho cuộc sống chu chuyển vạn lối. Tục ngữ Trung Quốc có câu :
-  Tam thập niên tiền thuỷ lưu đông, tam thập niên hậu thủylưu tây ( ba mươi năm trước nước chảy về phía Đông, ba mươi năm sau  nước chảy về phía Tây) “ để tả cái biến của sự vật cuộc đời biển dâu, dâu biển. Thế vận thịnh suy trị loạn, đời người hung cát theo nhau.Bên cạnh cái lý thịnh suy hung cát còn có quy luật bĩ cực thái lai và biện chứng vật cực tắc phản đem đến cho cõi nhân sinh ý nghĩa và giá trị để đời sống khỏi tẻ nhạt vô vị. Bởi có bĩ cực thái lai nên gặp bĩ chẳng đáng ta phải lo cứ tiếp tục phấn đấu, gặp thái chẳng đáng cho ta mừng đến độ quên phấn đấu. Đằng sau thái là bĩ, đằng sau bĩ là thái. Thái bĩ là hai mặt trước sau của mệnh vận.Bĩ cực tắc thái. Thái cực tắc bĩ. Đấy là chân tướng của mệnh vận. Hoạ phúc theo vận mệnh học được tính theo cái lý nhân quả, chứ không thể nói theo ông On Như Hầu, Nguyễn Gia Thiều trong mấy câu thơ cung oán : Quyền hoạ phúc trời tranh mất cả Chút tiện nghi chẳng giả phần ai Cái quay búng sẵn trên trời Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm. Có nhân tất là có quả. Có quả tất phải có nhân. Reo gió gặt bão. Ra ân được phúc. Xét ở hiện tại khả dĩ thấy được phần nào quá khứ và suy ra phần nào tương lai. Đó là nhân quả thông thường.  Ngoài  nhân  quả  thông  thường  còn  có  nhân  quả  trên  một  tầng  cao  hơn  gọi  là  nhân  quả thuộc triết lý hệ của số mệnh, nhân quả cách xa nhau và ảnh hưởng gián tiếp.Lão Tử nói :
- Hoạ hề phúc sở ý, phúc hề hoạ sở phục

   Phúc chứa chất mềm hoạ, trong hoạ tiềm ẩn phúc. Phúc hay hoạ không đến một cách vô cớ.Nó đến theo luật nhân quả như sách Tả Truyện viết : / Hoạ phúc vô môn duy nhân sở chiêu / (Hoạ phúc do người gọi tới). Con người ta ai chẳng mong được phúc vậy thì làm sao lại có chuyện chiêu hoạ ? Lão Tử trả lời : / Hoạ mạc đại ư bất tri túc, mạc đại ư dục đắc / nghĩa là hoạ ở chỗ không biết thế nào là đủ, lòng dục, lửa dục cứ lớn mãi. Đó là thường lý. Thường thức và học thức không giống nhau, học lý và thường lý cũng có nhiều chênh lệch.Thường thức, thường lý tìm thấy ở thường tình thường sự, nhưng học thức và học lý chỉ tìm thấy qua học thuật chuyên môn. Thường thức thường lý mang tác dụng chỉ đạo nhân sinh. Tri thức về vận mệnh có nhiều người lấy thường lý của nhân sự để giải thích bằng thuyết tự ngã (do mình) cho sức người là trung tâm. Cực điểm của thuyết này là siêu nhân (super - homme). Tây phương có khá nhiều thuyết siêu nhân sau khi chủ nghĩa nhân văn đã thắng thần quyền tăng lữ. Mệnh vận học Đông phương không cho sức người là trung tâm, không đem tự ngã để giải thích. Mệnh lý là một học vấn chuyên môn nghiên cứu về vận mệnh con người căn cứ vào thời gian sinh ra đời và hình dáng (tướng) để phán đoán. Trong phán đoán này, sức người với tự ngã chỉ đóng góp một phần nhỏ. Gánh cực đem đổ lên non Cong lưng mà chạy cực còn theo sau. Sức  người  và  tự  ngã  nếu  không  có  sự  trợ  giúp  của  may  mắn  tất  sẽ giảm hẳn thành quả. Ngay các nhà khoa học thông thái Tây phương trên cửa miệng vẫn thường thốt ra câu : / Pauvres gens, ils n’ont vraiment pas de chance /. Đã có nhiều khoa học gia đặt vấn đề may rủi có thể nhìn thấy hay không ? Họ đều công nhận may rủi ở ngoài sức người và tự ngã, họ đưa ra môn học / calcul de probabilité / (toán lượng định).Mệnh vận học Đông phương cũng thế, nó hẳn hoi là một con toán, có khác chăng chỉ là khác vì nó đặt bài toán đó trên một luật tắc cao hơn. Không thể bảo mệnh vận học là huyền bí. Danh từ này chỉ có thể gọi các thuật phù thuỷ ếm bùa, đồng rí, tabou, hội kín tôn giáo. Điều đáng tiếc là môn mệnh vận học tự nó có những khuyết điểm :
a)   Dễ học nhưng rất khó tinh tường
 b)   Chỉ biết nó vậy nhưng không mấy người chịu đi tìm hiểu tại sao nó vậy ?
c)   Các giang hồ thuật sĩ vì lý do này hay lý do khác thường dùng thần quyền để làm áp lực đối với những thắc mắc về mệnh vận.Thường lý căn cứ trên thường tình, thường sự để đem ra lời giải thích về mệnh vận nếu nói có lý thì nghe, đương nhiên là xuôi tai.
   Nhưng mệnh lý chẳng những nó luôn luôn không giống thường lý mà còn luôn luôn sung đột với thường lý nữa. Nếu muốn nói cho suôi thì phải đem cả một hệ thống học vấn chuyên môn ra giảng. Điểm căn bản cho sự xung đột giữa mệnh lý và thường lý là thường lý dựa trên sự thật hiện hữu để suy đoán vị lai mà mệnh lý thì dựa trên mệnh cách vô hình để phán đoán những biến hoá đã qua và sắp tới. Tỉ dụ thường lý bảo anh A thân thể cường tráng khoẻ mạnh thì chắc hẳn anh sống lâu. Mệnh lý sau khi xem xét ngày tháng năm sinh hoặc hình dáng nói ngược hẳn lại thường lý rằng anh A sẽ chết trong vòng vài ba năm nữa.
   Tỉ dụ : thường lý bảo / hữu chí cánh thành/. Mệnh lý nói khác / mưu sự tại nhân thành sự tại thiên/. Theo mệnh lý giải thích thì đời con người ta từ quan hệ cha mẹ anh em, vợ con, bè bạn cho đến sống lâu, chết yểu, sự nghiệp thành bại, gặp hoạ gặp phúc đã được định đoạt bởi số vận tới 7 phần 10, chỉ còn lại 3 phần cho hữu chí giả.Người xưa dạy rằng : / Nhân sinh bất như ý sự thường bát cửu/. ( Trong đời những điều bất như ý có tám chín). Nói thế tức là thừa nhận biến chuyển của đời sống đi ra ngoài nhân lực và tự ngã quá bán phần quyết định.
    Tuy nhiên, giảng mệnh lý xin chớ quá hoả để nói dựng đứng : từ miếng ăn miếng uống đều do tiền định ( nhất ẩm nhất trác giai do tiền định). Mệnh lý không chi phối từng chi tiết của người đời đâu, nói khác đi, mệnh lý chi phối những gì liên quan đến đại sự thôi. Nó vẫn còn để cho con người tự chủ, tận nhân sự khả bổ cứu mệnh vận. Số nghèo thật đấy nhưng nếu chăm chỉ không trở nên giàu vẫn có thể tránh được cảnh bần tiện nhục nhã. Mệnh lý tuy xây dựng trên luật tự nhiên mà vẫn có chỗ cho luật nhân sự. Toàn bộ mệnh vận học Đông phương đều có chung một gốc là khoa âm dương ngũ hành được hệ thống hoá qua bộ kinh Dịch từ hơn ba ngàn năm trước đây. Mệnh vận học phân ra nhiều thuật :

-        Sơn
-        Y
-        Mệnh
-        Bốc
-        Tướng
Sơn là phép tu tiên gồm ba bộ môn tu luyện : huyền điển – dưỡng sinh – tu mật.
Y là chữa bệnh gồm ba phương pháp : phương tễ (bốc thuốc)   - châm cứu – linh trị (chữa bệnh bằng ý niệm). Mệnh là tính số toán có khao Tử Bình (số bát tự) – Tinh Tôn – tử  vi đẩu số. Bốc là bói toán dựa vào tinh linh để hỏi vũ trụ thiên nhiên có bốn lối : bốc dịch, lục nhâm, kỳ môn, thái ất.
Tướng là xem hình thế, có ba loại : xem vân tay, diên mạo, nhân dáng – xem nhà cửa (dương cơ)  - xem âm phần (tức địa lý phong thuỷ) – xem tướng trời tức khoá thiên văn. Thiên văn, Thái At thần kinh ở trên tầng cao tính vận nước. Thiên Văn đã thất truyền. Thái At nay vẫn còn sách lưu truyền nhưng có lẽ vì sách có nhiều chỗ in sai nên đọc rất khó hiểu. Phong thuỷ, dương cơ tính mệnh vận cho cả một dòng họ, vài ba đời con cháu.
    Y đối với các khoa phương tễ, châm cứu, linh trị thì đứng riêng ra một ngành, chuyển vào mệnh vận học chỉ còn lại phép bắt mạch thái tố bây giờ cũng gần như thất truyền. Sơn tức tu tiên học đạo trước sau vẫn biệt lập, tuy nhiên lại rất quan tâm đến mệnh vận học vì phải hiểu sâu xa lẽ cùng thông bĩ thái nên mới tìm vào tiên  đạo cho nên những người đắc đạo đa số tìm tòi đóng góp đắc lực cho khoa mệnh vận học.
   Tỉ dụ : Dương quân Tùng, bậc đại sư của khoa địa lý phong thủy, Hi Di Trần Đoàn v.v... ít nhiều đều mang tiên cốt như hình dáng một bậc cao sĩ được tả trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa :

Một đêm gió lạnh lùng
Muôn dặm mây đỏ ối
Bời bời hoa tuyết bay
Nước non hình sắc đổi
Ngảnh mặt trong lên trời
Tưởng là rồng ngọc chổi
Vây mai tua tủa bay
Một lát khắp bốn cõi
Cưỡi lừa qua cầu con
Than vì mai gầy cỗi

    Phổ biến nhất là các khoa tướng nhân diện, Tử, Bình, Tử Vi, bốc  dịch, lục nhâm, kỷ môn độn giáp vì các khoa trên tính trực tiếp mệnh vận mỗi người đang sống mỗi việc đang làm không xa xôi diệu vợi như phong thuỷ địa lý hay thái ất. Cần phải phân biệt bốc dịch, lục nhâm, kỳ môn nói chung là bói chỉ dùng để vấn sự nghĩa là hỏi một việc đang tiến hành xem diễn biến tốt xấu của nó ra sao. Còn Tử Vi, Tử Bình dùng vận mệnh suốt đời người. Có điểm rất đáng chú ý là :
   Người Trung Quốc và mấy nước chịu ảnh hưởng văn hoá Hán Tộc như Nhật Bản, Đại Hàn đều xem số Tử Bình như 1 không dùng Tử Vi.Duy tại Việt Nam khoa Tử Vi lại phổ biến phát triển mạnh, người Việt hầu như không biết đến số Tử Bình là gì cả.Nguyên nhân nào không ai rõ. Người thuộc phái hệ Tử Vi cho rằng Tử Vi là một khoa toán số dành cho bậc vua chúa, nên giai cấp thống trị không cho phổ biến trong dân gian. Bởi những biến động chính trị khiến một số con vua cháu chúa chạy nạn sang nước ta chịu ơn ai đó mà truyền lại, hoặc phải dùng khoa này kiếm tiền, hoặc do liên hệ hôn phối không dấu nữa.Giả thiết trên đúng hay sai vì không có sử liệu rõ ràng không thể phê phán hàm hồ.Chỉ biết khoa Tử Vi khi bị thu hẹp tại một địa phương đã phải chịu một thiệt thòi là không có những sách bàn thêm, xiển dương và khai triển như khoa Tử Bình.
Tỉ dụ nếu ta muốn nghiên cứu về khoa Tử Bình, ta có thể tìm thấy nhiều sách cần thiết cho việc nghiên cứu đó như :
-        Trích Thiên Tuỷ của Lưu Bá On
-        Uyên Hải Tử Bình của Từ Tử Bình
-        Mệnh Lý Chính Tôn của Trương Thần Phong
-        Tử Bình Chân Thuyên của Thầm Hiếu Đam
-        Mệnh Lý Thám Nguyên của Viên Thụ San
-        Tạo Hoá nguyên Thược tức bộ Lan Giang Võng của Vô Danh, v.v... cùng với hàng trăm bài phú của nhiều tác giả khác. Ay là chưa kể những người nổi danh hiện tại như Uc Đạt Nhân, Từ  Lac Ngô, Vương Hy Văn v.v...
   Còn khoa Tử Vi nhìn quanh đi quẩn lại chỉ có một cuốn Tử Vi đẩu số toàn thư của thuỷ tổ khoa này là ông Hi Di Trần Đoàn trước tác. Mặc dầu các bậc trí giả người Việt đã làm nhiều câu phú nôm bổ túc để thành toàn cho Tử Vi đẩu số, nhưng gốc gác vẫn là những nguyên tắc của Tử Vi đẩu số toàn thư. Nói thế không có ý khẳng định cuốn Tử Vi đẩu số toàn thư là loại tuyệt đỉnh vì ngay trong sách này còn có nhiều chỗ tối nghĩa, tam sao thất bản, trước sau thiếu hệ thống hoàn bị. Tuy nhiên, Tử Vi đẩu số toàn thư dù sao cũng không thể thiếu được trong tủ sách của người nghiên cứu khoa này.




Tử vi đẩu số qua truyền thuyết dân gian
Tử vi là gì ?

    Tử vi nghĩa là hoa tường vi màu đỏ thẫm (tử : màu đỏ tía – vi : tường vi hoa). Từ cổ đại giống người thuộc phía Bắc song Hoàng Hà dùng hoa màu đỏ để chiêm bốc. Hình ảnh việc chiêm bốc ấy giống hệt như chuyện Quỷ Cốc trước khi cho Tôn Tẩn Bàng Quyên xuống núi vào đời tranh đấu bảo mỗi người ngắt một cành hoa tường vi đưa lên thầy. Xem hoa phân âm dương Quỷ Cốc tiên sinh đã đoán biết trước vận mạng Tôn Tẫn bị bao nhiêu năm điêu linh cùng cực đến nỗi phải giả điên, ăn cả cứt heo mới thoát khỏi tay tên phản bạn lừa thầy Bàng Quyên.Trải qua nhiều đời, Tử vi chiêm bốc chuyển thành toán mệnh phương pháp. Phương pháp này đặt Tử Vi làm tên một ngôi sao đi tiếp với 13 sao nữa là :
    Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh, Thiên Phủ, Thái Âm , Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân. Rồi chia đời người ra làm mười hai cung là các cung :
    Mệnh, huynh đệ, phụ mẫu, tử tức, quan lộc, thiên di, tật ách, tài bạch, nô bộc, điền trạch, phúc, đức.
   Mười bốn chính tinh tuân theo một cách tính có sẳn căn cứ vào giờ, ngày tháng, năm sinh mà an vào mỗi cung. Sao nào ở cung nào sẽ tiên đoán việc gì đó sẽ xảy ra cho đời người.
   Tỉ dụ (đơn giản)    : Cung phu thê (vợ chồng), được hai sao Thái Âm , Thái dương thì người đàn ông hay đàn bà sẽ có một hôn nhân tốt. Trái lại, nếu thấy có sao Liêm trinh ở cung phu thê thì sẽ bị người khác phái lừa dối.
   Tỉ dụ (đơn giản) : cung tài bạch có sao Vũ Khúc tất tiền bạc rồi rào, nếu cung này gặp sao hung, hẳn nhiên sẽ vất vả nghèo khổ. Tỉ dụ (đơn giản) : trên trần thế biết bao nhiêu bách triệu phú  ông mà vẫn sống trong cảnh u sầu. Tại vì có hung tinh nằm ở cung Phúc Đức. Mười bốn vị chinh tinh thực ra chỉ là những ký hiệu cho một bài toán. Nhưng đối với dân gian để cho dễ nhớ, cũng như để răn đời, họ liền ghép những ký hiệu ấy vào các nhân vật sử mà thành câu chuyện truyền thuyết sau đây :
   Đời  Phong  Thần,  vương  triều  nhà  An  có  ông  vua  cực  tàn  ác  là  vua  Trụ.  Một  hôm,  Trụ Vương đi săn gặp mưa lớn, để trú mưa liền vào miếu Cửu Thiên Huyền Nữ. Trụ Vương vốn thô bạo và hiếu sắc thấy pho tượng Cửu Thiên Huyền Nữ đẹp quá mê ngay, hạ lệnh cho quân sĩ các tượng đó về xung vào đám tì thiếp của nhà vua. Mọi người tuy kính nể nữ thần nhưng họ còn sợ sự tàn ác của vua Trụ gấp bội, nên nhất loạt vâng lệnh mang Cửu Thiên Huyền Nữ về cung. Cửu Thiên huyền Nữ giận lắm mới hoá phép biến một con hồ ly trong rừng thành người đàn bà tuyệt sắc rồi sai đến mê hoặc Trụ Vương mà làm cho nhà An phải diệt. Người đàn bà tuyệt sắc ấy tên Đắc Kỷ, vương phi sủng ái của vua Trụ. Quả nhiên, Trụ Vương say mê Đắc Kỷ bỏ phế việc triều đình, gây sáo trộn trật tự.Cùng lúc đó, trên trời đang thiếu nhiều thần linh, Ngọc Hoàng Thượng Đế rất mừng thấy Cửu Thiên Huyền Nữ quyết tâm diệt An. Ngài nghĩ một khi nước loạn tất sẽ có nhiều anh hùng, trung thần chết vì quốc nạn. Ngài phái Thái Bạch Kim Tinh lập tức ra Nam Thiên Môn cầm sổ chờ sẳn, trong cơn binh lửa đón những người chết về. Ơ phía Tây giang sơn nhà An có chư hầu quốc giòng họ Chu giầu có thịnh vượng, văn hoá cao. Sợ nhà Chu một ngày kia sẽ lấn áp mình nên Trụ Vương ý định ra tay trước mới mượn cớ mời vị lãnh đạo Chu quốc là Văn Vương tới họp. Chu Văn Vương tinh thông bát quái Dịch Lý của Phục Hi trí tuệ bậc nhất thời bấy giờ. Trụ Vương nghĩ cứ bắt Văn Vương giết đi thì mọi sự sẽ đây vào đấy. Khi Văn Vương đến nơi, vua Trụ cho bắt nhốt ngay chờ ngày hành quyết, kết tội Văn Vương phản nghịch.Con lớn Văn Vương là Bá Âp, đẹp tuấn tú, hiên ngang, đàn bà con gái trong thấy Bá Âp một lần là thương nhớ khó quên. Bá Âp rất có hiếu, nghe tin cha bị hại lòng sốn sang như lửa đốt, ngày đêm phóng ngựa đến gặp vua Trụ để minh oan cho cha mà không hề biết hậu ý của vua Trụ. Trụ Vương hứa ba ngày sau sẽ nói chuyện và lưu Bá Âp ở trong cung. Đêm  khuya,  Bá  Ap  ngồi  gảy  đàn,  tiếng  đàn  như  nước  chảy  trên  đá,  buồn  như  chim  đỗ quyên hót nhiều đến rớm máu mắt chan hoà khắp cung điện khiến Đắc Kỷ tỉnh giấc lắng nghe rồi lần theo tiếng đàn mà tới buồng Bá Âp. Nàng chỉ mặc trên người tấm áo lụa mỏng. Nhìn qua song cửa, Đắc Kỷ trong thấy dưới ngọn bạch lạp, một chàng trai khôi vĩ, cao sang tuyệt bực đang chăm chú với phím đàn. Con hồ ly tay sai của Cửu Thiên Huyền Nữ, nó vốn tính cực dâm đãng nên chẳng  chút  ngần  ngại  mở  cửa  vào  phòng Bá  Ap  dùng  cử  chỉ  lả  lơi  quyến  rũ.  Nào  ngờ  Bá  Ap chẳng những bất động tâm, chàng còn lớn tiếng mắng Đắc Kỷ là đồ đĩ thoả. Đắc Kỷ bực bội vì không được thoả mãn cũng chửi lại Bá Âp làm náo loạn cung đình, vệ binh kéo đến bắt giữ Bá Âp. Đắc Kỷ già mồm khóc lóc nói với vua Trụ rằng mình bị Bá Âp làm xấu, nghe tiếng đàn nàng đứng ngoài song cửa bỗng Bá Âp xấn tới ôm nàng kéo vào buồng. Trụ Vương cả giận, cơn ghen bừng bừng không cần hỏi han cơ sự thực hư thế nào nữa, hét quân mang Bá Âp ra chém rồi băm thây ra viên thịt Bá Âp nướng chả đem đến cho Văn Vương ăn.Văn Vương trong ngục thất là người giỏi toán số đã biết rõ hết mọi chuyện xảy ra. Buổi sáng khi quân canh mang chả nướng vào, Văn Vương ung dung ngồi ăn hết dĩa  chả. Trụ Vương thấy vậy cười ha hả nói : / Thằng đó đúng đồ hư danh,  ăn thịt con mà cũng không biết thì có gì đáng sợ, không hiểu tại sao thiên hạ phục hắn về cái tài thần toán chiêm bốc /. Nói rồi Trụ Vương sai thả Văn Vương ra khỏi ngục.Trên đường về Chu quốc, nỗi mừng thoát nạn không sao lấp được cái buồn cha ăn thịt con cho nên vẻ mặt bi thảm khôn tả. Đến nhà, Văn Vương tìm khu vườn cây xanh tốt, tự móc họng để nhả những miếng chả ra. Lạ thay, thịt Bá Âp đã biến thành một động vật lông trắng muốt, đôi tai dài, mắt đỏ màu hồng ngọc chạy nhảy tung tăng trong hiền hậu dễ thương, đấy là con thỏ đầu tiên của thế giới. Nó cúi đầu chào Văn Vương rồi chạy vào đám cỏ xanh mất dạng. Thái Bạch Kim Tinh đưa tay đón bắt con thỏ đưa về trời. Giữa lúc ấy thì trên một ngôi sao, hoa tường vi nở đỏ bát ngát. Ngôi sao này là chủ tinh của một chòm sao. Do đề nghị của Thái Bạch Kim Tinh, Ngọc Hoàng Thượng Đế liền bổ nhiệm Bá Âp về cai quản sao Tử Vi bởi lẽ Bá Âp hội đủ ba tính chất : thiên lương, tôn quí và cao quí.

    Văn  Vương  thề  quyết  trả  thù  cho  con,  ngày  đêm  nỗ  lực  xây  dựng  xứ  sở,  làm  việc  quá nhiều Văn Vương kiệt lực chết, việc diệt nhà An giao vào tay Vũ Vương, em của Bá Ấp.Vũ Vương nối nghiệp cha, ngày ngày huấn luyện binh mã, chăm lo nông nghiệp, quốc lực tăng trưởng, nhờ vị quân sư là Khương Thượng, Vũ Vương đánh bại Trụ Vương tiêu diệt An triều. Khương Thượng hiệu Tử Nha tục xưng Lã Vọng là người cao minh trí tuệ, lúc chưa đắc chí ngồi câu cá nơi song Vị, nghèo khổ cùng cực bị mụ vợ già chửi  mắng suốt ngày. Mãi đến chín mươi tuổi mới gặp Văn Vương mời về làm quân sư. Văn Vương chết,  Khương Thượng giúp Vũ Vương phạt Trụ.Bình xong thiên hạ, Vũ Vương phong cho Khương Thượng cai quản đất Tề. Lúc chết, Thái Bạch Kim Tinh mời về trời giao cho cai quản sao Thiên Cơ, bởi thế sao Thiên Cơ trong Tử Vi đau số tượng trưng cho trí tuệ, quyền biến cơ mưu.
 
    Trụ Vương tuy là bạo quân nhưng chung quanh ông có nhiều trung thần, đáng kể nhất là Tỉ Can từng khuyên vua Trụ dứt bỏ con yêu tinh Đắc Kỷ. Trụ Vương bực  bội mắng Tỉ Can bất trung. Để tỏ lòng ngay thẳng, Tỉ Can nói với Trụ Vương : /Nếu bệ hạ không tin lời, thần xin đem tấm lòng son sắt dâng lên bệ hạ/. Nói xong cầm dao tự đâm vào ngực moi tim đưa cho Trụ Vương.Tỉ Can chết, Thái Bạch Kim Tinh thương lắm tới đón về trời giao cho cai quản tinh cầu sáng rực, cực quang minh chính đại là sao Thái  Dương.
    Khương Thượng, Bá Âp, Tỉ Can đã xong, còn Văn Vương, Vũ vương ra sao ? Vũ Vương lên ngôi thi hành thiên chính, sống rất thọ. Khi chết, Thái Bạch Kim Tinh nhận công nghiệp vũ dũng đánh dẹp bạo quân rất xứng đáng với sao Vũ Khúc nên dâng sớ xin Ngọc Hoàng đặt Vũ Vương nơi ấy. Vũ Vương chẳng những là người dũng cảm lại giỏi về kinh tế khiến cho đời sống dân gian sung túc. Do vậy Vũ Khúc còn là sao chú về tiền bạc giàu có trong Tử Vi đẩu số.
    Thảo phạt Trụ Vương là Vũ Vương, nhưng nếu không có những công lao bước trước của Văn Vương thì đại sự cũng chẳng thành. Hầu hết các nhân vật tài giỏi giúp Vũ Vương đều do Văn Vương để lại. Thái Bạch Kim Tinh nhận thấy Văn Vương xứng đáng là một vị thần giỏi dung hoà xếp đặt, tính tình ôn thuận nên cho về cai quản ngôi sao Thiên Đồng.
    Bên cạnh vua Trụ có tên đại gian thần là Phí Trọng dùng nịnh nót và gian kế đã giết chết nhiều trung thần của An triều để thoả mãn nắm đại quyền quốc  gia. Khi An triều diệt vong, Phí Trọng bị Khương Thượng bắt đem chém đầu. Ngày hành hình trên trời thiếu thần trị nhậm sao Liêm Trinh, Thái Bạch Kim Tinh liền dùng Phí Trọng làm vị thần của mọi sự tà ác. Trong Tử Vi đẩu số, Liêm Trinh chủ về những sự việc lắt léo không ngay thẳng, tàn nhẫn.

    Trụ Vương có một vị chính thức nguyên phối hoàng hậu họ Khương là người đàn bà hiền thuc tài năng. Từ ngày Đắc Kỷ xuất hiện, bà Khương hậu bị vua Trụ bỏ rơi, do sự xúi bẩy của Đắc Kỷ, Trụ Vương giết luôn bà Khương hậu. Thái Bạch Kim Tinh đón vong hồn Khương hậu cho cai quản một tinh cầu đầy vật sản phì nhiêu là sao Thiên Phủ.Trong Tử Vi đẩu số, sao Thiên Phủ mang tính chất tài năng và từ bi.
    Ân triều có ông quan trung nghĩa tên Hoàng Phi Hổ có người vợ họ Giả, nhan sắc diễm lệ,nức tiếng xa gần. Lệ triều đình hàng năm cứ đến ngày Tết nguyên đán, các quan phải cùng đi với phu nhân vào bái yết quốc vương. Giả phu nhân theo chồng vào cung. Đắc Kỷ thấy Giả phu nhân nói chuyện duyên dáng lại đẹp nên đố kỵ, bảo vua Trụ mời bà ở lại dự dạ yến để lập kế hại. Rượu say, Trụ Vương chẳng giữ lễ vua tôi gì nữa, chạy lại ôm lấy Giả phu nhân mà ép nài chuyện bậy bạ. Vốn là người đàn bà trọng tiết tháo, không chịu được nhục nhã, bà bỏ chạy cùng đường phải lao mình từ trên lầu cao xuống đất tự tử. linh hồn Giả phu nhân bay lên trời, Thái Bạch Kim Tinh đặt bà làm nữ thần của sự thanh khiết, cho đến trú ngụ nơi sao Thái Âm m. Từ khi bà về tới thì tinh cầu này trở nên gọn ghẽ, sáng sủa và rất sạch.Thái Âm tinh trong khoa Tử Vi tượng trưng cho thanh khiết, sáng đẹp và ưa sạch sẽ.
    Đắc Kỷ, nữ yêu chủ chốt của nhiều biến cố, số phận ra sao ? Xuất thân là con hồ ly hầu hạ Cửu Thiên Huyền Nữ qua danh nghĩa ái nữ của một đại thần nên lọt vào cung đình, dùng tửu sắc mê hoặc Trụ Vương. Đắc Kỷ gây nhiều tai hoạ, bị Khương Tử Nha xử tử hình. Thái Bạch Kim Tinh cho bắt vong hồn Đắc Kỷ về phong làm thần dục vọng, ác liệt, hoang đàng để cai quản sao Tham Lang. Tinh cầu này đầy chó sói hung dữ không thần nào trị nổi chúng. Nhưng lúc Đắc Kỷ tới nơi thì chúng  reo mừng. Ơ Tử Vi đẩu số, sao Tham Lang mang tính chất điếm đàng tửu sắc, ưa vung phí ăn chơi,tượng trưng người đàn bà phá hoại chồng con, vô tài, bất đức.
   Khương Tử Nha ngoài bảy mươi tuổi mới lấy người con gái lỡ thì năm ấy cũng đã hơn năm mươi tuổi tên Mã Thiên Kim. Kể từ ngày chung sống gia cảnh cực thanh bần, nhiều bữa không có cơm ăn. Mã Thiên Kim là người đàn bà thô tục, lăng loàn, vụng về chỉ vì nhờ chút tiền duyên nên lấy  được  Khương  Thượng.  Sau  mười  mấy  năm,  nghèo  quá  chịu  không  nổi,  Mã  Thiên  Kim  bỏ Khương Thượng. Lã Vọng bấm tay tính số biết lúc con vợ lăng loàn thô tục ra đi chính là lúc vận bĩ của ông cũng hết và Khương Thượng một sớm một chiều trở thành quân sư của Văn Vương. Nghe tin, Mã Thiên Kim vừa tiếc vừa hối hận, thắt cổ tử ải. Lã Vọng nghĩ tình cũ nghĩa xưa, cho người làm tang ma tống táng, hồn phách Mã Thiên Kim được Thái Bạch Kim Tinh dùng làm nữ thần coi các việc thị phi, nỏ mồm quai mỏ cấp cho nhà ở nơi sao Cự Môn.
     Trong  đám  trung  thần  bên  cạnh  Trụ  Vương  còn  có  Văn  Thái  Sư  làm  tể  tướng  và  đại nguyên suý của An triều. Quân nhà An bị Chu quân đánh thua, Văn Thái Sư   chết tại trận tiền. Vong hồn lên trời được Thái Bạch Kim Tinh cho cai quản sao Thiên Tướng. Bất luận ai, theo lý ra phải sau khi chết mới được làm thần, chỉ duy Lý nguyên suý đại tướng của nhà Chu là Thái Bạch Kim Tinh theo lệnh Ngọc Hoàng, xuống mời về làm thần ngay lúc ông còn sống. Nơi trị nhậm của Lý nguyên suý là Thiên Lương tinh. Hoàng Phi Hổ uất ức vụ vua Trụ làm nhục vợ mình gây ra cái chết oan uổng cho Giả phu nhân nên nổi lên đem binh mã đánh lại Trụ vương về rồi đầu hàng Vũ Vương. Ông đánh trận rất hăng thu được nhiều thắng lớn. Cuối cùng Hoàng Phi Hổ Chết thảm trong trận Thằng Trì. Thái Bạch Kim Tinh đón vong hồn Phi Hổ về cai quản sao Thất Sát và phong làm thần chiến tranh chuyên coi việc sát phạt.

    Sau chót là Trụ Vương vì mê Đắc Kỷ, hãm hại trung thần bị Vũ  Vương khởi binh phạt tội.Vũ Vương tấn công vào tận cung điện Trụ Vương. Hết đường chạy, Trụ Vương leo lên lầu cao nổi lửa đốt hết và chết trong đám cháy.Trụ Vương chết rồi, Thái Bạch Kim Tinh cho mang vong hồn về sao Phá Quân, phong làm thần phá hoại.Trong Tử Vi, Phá Quân tượng trưng tính hung bạo, ngang ngược.
Tổng kết lại, ta có thể nhận định như sau :
-        Sao Tử Vi là Bá Âp, thần của khí chất tôn quí.
-        Sao Thiên Cơ là Khương Thượng, thần của trí tuệ, tinh thần.
 -        Sao Thái Dương là Tỉ Can, thần của quang minh, bác ái.
-        Sao Vũ Khúc là Vũ Vương, thần của vũ dũng đại phú.
-        Sao Thiên Đồng là Văn Vương, thần của dung hoà, ôn thuận.
-        Sao Liêm Trinh là Phỉ Trọng, thần của tàn ác, lươn lẹo.
-        Sao Thiên Phủ là Khương hoàng hậu, thần của tài năng, từ bi.
-        Sao Thái Âm là Giá phu nhân, thần của tinh khiết, trinh thảo và sạch sẽ.
-        Sao Tham Lang là Đắc Kỷ, thần của dục vọng, vật chất.
-        Sao Cự Môn là Mã Thiên Kim, thần của thị phi, nghi hoặc.
-        Sao Thiên Tướng là Văn Thái Sư, thần của từ ái, trung trinh.
-        Sao Thiên Lương là Lý Thiên Vương, thần cảu quản trị, tổ chức, xếp đặt.
-        Sao Thất Sát là Hoàng Phi Hổ, thần của uy nghiêm, quyết liệt.
-        Sao Phá Quân là Trụ Vương, thần của phá hoại, tiêu hao.

Câu chuyện truyền thuyết trên đây không biết có tự bao giờ ? Trước hay sau Trần Đoàn ? Có thể đưa ra hai giả thuyết :
a)   Nó có trước Trần Đoàn vì lẽ không thấy nói đến những sao khác như Văn Xương, Văn Khúc, Khôi Việt, Không Kiếp v.v... chứng tỏ Tử Vi đẩu số trước thời Trần Đoàn còn thô sơ, đơn giản.
b)   Những chính tinh của Tử Vi đẩu số mang tên Thiên Cơ, Cự Môn, Tham Lang, Liêm Trinh đã xuất hiện trong sách phong thuỷ của Dương Quân Tùng mà Dương Quân Tùng sinh thời là lúc thịnh Đường trong khi Trần Đoàn là người của cuối Đường sắp sang Tống.Sách Hám Long Kinh của Dương Quân Tùng có một đoạn nói về cửu tinh huyệt như sau :
Tham Lang tác huyệt thị nhũ đầu
Cự Môn tác huyệt oa trung cầu
Vũ Khúc tác huyệt thoa kiềm mịch
Lộc Liêm sơ sỉ lê tí đầu
Văn khúc huyệt lai bình lý tác
Cao sứ diệc thị trưởng tâm lạc
Phá Quân tác huyệt thị qua mâu v.v... chứng tỏ những tên Thiên Cơ, tham Lang, Cự Môn đã có trước Trần  Đoàn. Ngoài ra, xin nêu thêm vào điểm đáng chú ý khác như : khoa phong thuỷ chỉ có cửu tinh là: Tham Lang – Cự Môn – Lộc Tôn – Văn Khúc – Liêm Trinh – Vũ Khúc – Phá Quân – Tả Phú – Hữu Bật. Không thấy nhắc  đến huyệt thuộc Tử Vi tinh, Thái Âm , Thái Dương tinh.

Định cách ngũ hành : Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ cho mỗi sao giữa khoa phong thuỷ với khoa Tử Vi cũng khác nhau. Tỉ dụ Phá Quân ở Tử Vi là thuỷ nhưng ở khoa xem đất cát, Phá Quân lại là kim chứng tỏ mỗi khoa chỉ dùng những tên Cự Môn, Thiên Cơ hay Tham Lang như những ký hiệu còn phân định thuộc hành gì thì mỗi khoa dùng theo cách riêng của từng khoa chứ không có một sự bắt buộc chung nào cả. Còn vấn đề những tên ấy do ai đặt ra trước nhất thì không thấy sách nào nói tới.
    Trần Đoàn và sách Tử Vi đẩu số toàn thư

Cụ Nguyễn Công Trứ có làm một bài ca trù vịnh Trần Đoàn như sau :
Sườn non bầu rượu túi thơ
Thảnh thơi ngồi gẫm cuộc cờ
Trường An Vạc Hậu Chu vừa khi mới đổi
Trần Hi Di lên ẩn núi Hoa Sơn
Mấy mươi năm trong cuộc bùn than
Lửa văn võ chưa rặc lò đan táo Há vật lão ấu
 Nặng trên vai hai chúa thái bình
Liếc trong chừng Tống nhật đã khai minh
Mây thúc qui hẳn từ rầy trong leo lẻo
Trần Kiều mộng lý giang sơn tiểu
Văn quán xuân thảm nhật nguyệt trường
Rượu  một bầu, thơ một túi, cờ một cuộc, cầm một xoang
Khi đắc ý gật trên lừa cười ra rả
Ngoài cung kiếm mặc ai xa mã
 Luy trần bất đáo thử giang san
Trời riêng cho một cuộc nhàn.

Trong chính sử không thấy nói đến Trần Đoàn, tên ông chỉ được ghi trong dã sử, truyền kỳ và chính thức trong các sác về tướng pháp và lý số, thành thử đời sau không thể có một tiểu sử liên tục và rõ ràng về ông. Căn  cứ  vào  bài  Ca  trù  của  Nguyễn  Công  Trứ  để  lấy thứ  tự  đồng  thời  cộng  với  một  số truyền kỳ, ta có thể hình dung một cách đại khái thân thế Trần Đoàn như sau :
     Từ  nhà  Đường  chuyển  sang  nhà  Tống  trải  qua  giai  đoạn lịch  sử  quá  độ  trung  ương  tập quyền biến ra địa phương hùng cứ rồi chuyển thành đời Ngũ Đại đã rồi nhà Tống mới thống nhất. Trần Đoàn lớn lên giữa lúc nhiễu nhương binh lửa, giết chóc loạn lạc, ông lên núi tu ẩn để tránh hoạ. Khi đã nắm được lẽ huyền vi của âm dương, ông thường đi đây đi đó tìm anh hùng và chân chúa. Có một lần gặp người đàn bà gánh kĩu kịt trên vai hai  đứa trẻ mỗi thúng ở đầu đòn gánh một đứa. Ông mới hỏi : / Hà vật lão ẩu ? Này bà kia gánh chi vậy ? / Người đàn bà mở nắp thúng cho Trần Đoàn coi rồi thở dài nói : / Tôi dẫn hai con tôi đi chạy loạn đây.
    Vừa nhác trong thấy hai đứa nhỏ, Trần Đoàn đã kêu lên : / Một vai bà gánh những hai vị thiên tử sao ?/Lòng ông vui mừng khôn xiết vì thiên hạ sắp hưởng đời thái bình nên mới có hai vị chân chúa anh hùng xuất thế. Trần Đoàn liền lấy trong bọc ra mười lạng đưa biếu người đàn bà không quen biết rồi lên lưng lừa đi thẳng.

  Hậu Chu là gì ?

    Là Chu Thế Tôn người đi bước đầu trong công cuộc thống nhất nhưng  chưa được năm năm đã mất.Phải  đợi  đến  lúc  có  vụ  binh  biến  Trần  Kiều  do  hai  anh  em  ông  Triệu  Khuông  Dận  và Triệu Khuông Nghĩa (hai đứa trẻ Trần Đoàn gặp trước đây nay lớn lên) cầm đầu đánh dẹp nốt các phương chấn bấy giờ đại nghiệp thống nhất mới hoàn thành.Khi nghe tin Triệu Khuông Dận là Tống Thái Tổ thì Trần Đoàn đang ngồi trên lưng lừa ngửa mặt cười ra rả nói :
- Thiên hạ thái bình rồi/.
  Về sau, Tống Thái Tôn tức Triệu Khuông Nghĩa có cho người vời Trần Đoàn ra làm quan nhưng ông từ chối, bỏ vào núi đi mất không ai biết ở đâu.
Gốc thông hỏi chú học trò
Rằng thầy hái thuốc lò mò đi xa
Chỉ trong dãy núi đây mà
Mây che mù mịt biết là nơi nao.
(Tản Đà dịch thơ Giả Đào bài Tầm ấn giả bất ngộ)

Gốc gác khoa Tử Vi có tự bao giờ ?
 Không ai rõ. Chỉ biết đời nhà Gia Tĩnh thuộc Minh triều có lưu truyền cuốn Tử Vi đẩu số toàn thư do tiến sĩ La Hồng Tiên biên soạn. Lời tưa ở đầu nói Tử Vi đẩu số toàn thư là của tác giả Hi Di Trần Đoàn. Bài tựa viết như sau :
- Thường nghe nói cái lý của số mệnh rất huyền vi ít ai biết cho tường tận để mà thuận thụ coi công danh phú quí trên đời đều có mệnh.Tôi vì muốn biết nên đã tới tận núi Hoa Sơn chỗ ông Hi Di Trần Đoàn đắc đạo để chiêm bái nơi thờ tự của bậc đại hiền. Lúc ra về thì thấy một vị cao niên thái độ ung dung chân thực đưa ho tôi cuống sách mà bảo :
 Đây là Tử Vi đẩu số tập của Hi Di tiên sinh/.
   Mang về mở ra xem, ban đầu các sao nghĩa lý thật ảo diệu nhưng càng đọc càng thấy lời bàn luận sác đáng, đem ra đoán thử thấy lời đoán rất thần nghiệm, càng học càng thấy hay lạ. Bất giác phải kêu lên : - Tạo hoá chí huyền chí hư mà soi sáng được đến thế này, nếu con tâm bậc đại hiền không nhập vào với tạo hoá thì làm sao biết nổi. Tinh tú ở xa muôn triệu dặm mà tính hết vào trong một bàn tay, nếu bậc đại hiền không phải là người hung tàng tinh đẩu (trong ngực có tinh đẩu) thì làm sao tinh nổi. Ngôi trời ở trên, ngôi đất ở dưới, loài người đứng giữa. Hi Di tiên sinh đã tìm được lẽ con người thiên hợp và lẽ trời nhàn hợp qua sự biến hoá của các vì tinh đầu để tính ra số mệnh hay dở của từng người, nếu không có cái học quán thiên nhân thì ai làm nổi. Hi Di tiên sinh xứng đáng là một cao nhân, một thần nhân vậy.Bởi thế tôi muốn đem lời dạy của Hi Di tiên sinh phổ  biến cho khắp thiên hạ trong cõi thế gian thấp kém này được hiểu cuộc đời là có mệnh số.
   Cuốn Tử Vi đẩu số toàn thư của Hi Di Trần Đoàn do La Hồng Tiên biên soạn chia ra làm 4 tập :
   Tập một và tập ba nói về tính chất và ảnh hưởng các sao, các cung vào vận, vào mệnh con người qua các chương :

Thái vi phú – Hình tính phú – Tinh viên luận – Đẩu số chuẩn thắng – Tục hình tính phú – Phát vi luận – Đẩu số cốt tuy chú giải – Nữ mệnh cốt tuỷ phú chú giải – Tăng bổ thái vi chú giải – Bổ di cốt tuỷ phú chú giải – Định phú quí bần tiện đặng quyết – Chư tinh vấn đáp luận – Định phú quí bần tiện thập thập đẳng luận – Thập nhị cung chư tinh đắc địa quyết – Thập nhị cung chư tinh thất hãm quyết – Chư tinh đắc địa phú quý luận – Chư tinh thất hãm bần tiện luận – Định phú cực – Định quí cục – Định bần tiện cục – Định tạp cục – Đàm tinh yếu luận– Luận nhân mệnh nhập cách – Luận cách tinh số cao hạ – Luận nhân tính cách hà như – Luận Nam nữ mệnh đồng dị – Luận tiểu nhi mệnh – Định tiểu nhi sinh thời quyết – Luận nhân sinh thời an mệnh cát hung – Luận tiểu nhi khắc phụ mẫu – Luận mệnh tiền bần hậu phú – Luận đại hạn thập niên hoạ phúc hà như – Luận nhi hạn thái tuế cát hung – Luận hành hạn phàn nam bắc đẩu – Luận lưu niên thái tuế cát hung tinh sát – Luận kình đá diệt tinh – Luận thất sát trùng phùng – Luận đại tiểu hạn tinh thần quá thập nhị cung ngộ thập nhị chỉ sở kị quyết – Luận lập mệnh hành hạn cung ca – Luận chư tinh đồng vị viên các tư sở nghi phân biệt phú quí bần tiện yểu thọ.

   Tập hai dạy cách lấy số an các sao.
 Tập bốn là những lá số của các danh nhân, thường nhân với lời phê.
    Về tập hai tức là cách an sao lập thành là số thiết tưởng đã có nhiều sách làm kỹ càng rồi nên ở đây xin bỏ qua tập đó, chỉ nói một vài dị biệt giữa Tử Vi đẩu số toàn thư của Trần Đoàn với những sách Tử Vi ở nước ta. Tập một và tập ba cần chú ý hơn hết, chúng tôi sẽ dịch nguyên văn kèm theo lời bình và chú thích. Dùng chữ bình, chúng tôi tự thấy có vẻ hơi lạm thực ra chỉ là những thắc mắc mà chúng tôi tìm thấy đó thôi. Nhưng chúng tôi sẽ không dịch nguyên văn toàn bộ vì có nhiều điều lập đi lập lại hoặc do mất chữ trở thành vô nghĩa. Đồng thời, chúng tôi cũng đưa thêm vào ít khám phá mới của vài tác giả như Trương Huy Văn với các cuốn / Tử Vi Xiển Vi/, /Tử Vi phát bí/, như /Vô Muộn/ với cuốn /Đẩu số mệnh lý tân biên/. Tuy nhiên, chúng tôi cố gắng không để rơi lọt một tinh hoa nào của khoa Tử Vi có ghi trong sách Tử Vi đẩu số toàn thư của Hi Di Trần Đoàn tiên sinh.



 Những thuật ngữ cần biết

     Thuật ngữ để chỉ dụng cụ hoặc một tình trạng. Khoa Tử Vi đẩu số, chữ đẩu đầy nghĩa là ngôi sao cho nên tên sao và tính chất sao cùng với sự kết hợp các sao lại thành từng chùm mang những thuật ngữ riêng biệt. Tử Vi đẩu số có bao nhiêu sao tất cả ?

     Ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư chỉ thấy chòm sao chính là 14 vị :
Tử Vi – Thiên Cơ –Thái Dương – Vũ Khúc – Thiên Đồng – Liêm Trinh – Thiên Phủ – Thái Âm – Tham Lang – Cự Môn – Thiên Tướng – Thiên Lương – Thất Sát – Phá Quân.

         Sau đây là các phụ tinh như :
Văn Xương – Văn Khúc – Tả Phụ – Hữu Bật – Thiên Khôi – Thiên Việt – Thiên Ma – Lộc Tôn – Kình Dương – Đà La – Hoả Tinh – Linh Tinh – Hoá Quyền– Hoá Lộc – Hoá Khoa – Hoá Kị – Thiên Không – Địa Kiếp – Thiên Khương – Thiên Sứ – Thiên Đức – Nguyệt Đức – Long Tri – Phương Các – Thai Phụ – Phong Các – Hồng Loan – Thiên Hỉ – Tam Thai – Bát Toạ – Thiên Hình – Thiên Diệu – Đẩu Quân.

   Rồi đến chòm sao đi theo Thái Tuế, chòm sao đi theo Lộc Tồn, chòm sao Tràng Sinh. Mỗi chòm 12 vị ;  

   Rồi đến Triệt lộ không vong và Tuần trung không vong cộng lại là 85 vị.
   Nhưng sách Tử Vi ở Việt Nam do tổ tiên chúng ta truyền lại thì thấy có thêm nhiều sao khác không ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư của Trần Đoàn như các sao : Đào Hoa – Thiên Tài – Thiên Thọ – Phá Toái – Kiếp Sát – Thiên Y – Thiên Trú – Thiên Giải Địa Giải – Giải Thần – Địa Không – An Quang – Thiên Quí – Cò Thần – Quả Tú – Lưu Hà – Thiên Quan – Quí Nhân – Thiên Phúc.

Tổng cộng lại là 104 vị.
    Các cụ đã căn cứ vào đâu mà thêm vào không hiểu hoặc giả sách Tử Vi đẩu số toàn thư chính  bản  đã  sang  bên  ta,  nên  bản  lưu  bên  chính  quốc  bị  ghi  chép  thiếu  sót.  Nếu  vậy,  tại  sao không có những lời giải thích rõ ràng về các sao : Giải Thần – Địa Giải – Thiên Trú – Thiên Giải mà chỉ có vài lời nghe thật gượng ép. Trừ sao Đào Hoa thì có thể nói Tử Vi đẩu số toàn thư bị thiếu, vì sao này rất quan trọng trong phép tính số Tử Bình và cách an sao không khác phép tính số Tử Vi. Tính (sao) còn gọi là Diệu. Tỉ dụ 14 sao thuộc chòm Tử Vi Thiên Phủ là chính diệu (sao chính), nếu cung mệnh không có sao chính thì gọi là mệnh vô chính diệu.

   Sách đẩu số mệnh lý cho rằng : Tả Phụ – Hữu Bật – Văn Xương – Văn Khúc – Lộc Tồn cũng là chính tinh nữa. Còn cổ truyền khoa Tử Vi của ta thì căn cứ vào Tử Vi đẩu số toàn thư nên chỉ có 14 vị là chính tinh mà thôi.
Các sao :
Kình Dương – Đà La – Hoả Tinh – Linh Tinh – Thiên Khôi – Thiên Việt – gọi là Thiên diệu.
Hóa Lộc – Hoá Quyền – Hoá Khoa – Hoá Kị gọi là hoá diệu hay tứ hoá.
Ngoài ra các sao khác là tạp diệu.
Lại có những tên gọi riêng như Tứ Cát (bốn sao tốt) là Lộc, Quí (gồm Khôi Việt), Quyền, Khoa. Tứ hung hay tứ sát (bốn sao hung) là Hoả, Linh, Dương, Đà.
Những sao đi đôi, đi cặp là : Tử Phủ (hay Tử Vi – Thiên Phủ), Tử – Tướng, Phủ – Tướng,Nhật – Nguyệt, Tả – Hữu, Xương – Khúc, Không – Kiếp, Hoả – Linh, Dương – Đà, Khôi – Việt.

Tam hợp là gì ?
 Mỗi là số tử vi có 13 cung theo 12 chi, mỗi cung khi tính sao được tính theo tam hợp tức là hội các sao của 3 cung lại. Ba cung nào ? Phải theo nguyên tắc sau : Thân Tý Thìn, Tị Dậu Sửu, Hợi Mão Mùi, Dần Ngọ Tuất.
Lục xung là gì ?
 Tí – Ngọ xung – Sửu - Mùi xung – Dần -Thân xung – Mão –Dậu xung – Thìn –Tuất xung– Tị –Hợi xung.
 Thủ – đồng là gì ?
 Một chính tinh đóng ở mệnh cung là thủ mệnh. Hai chính tinh đóng ở mệnh là đồng hoặc đóng ở các cung khác cũng vậy.
Lâm – Nhập là gì ?
 Hai chữ trên mang cùng một nghĩa, nhưng sao tốt đóng ở đâu gọi là lâm, sao xấu đóng ở đâu gọi là nhập.
Miếu – Hãm là gì ?
 Mỗi sao cần phải đứng tại vị trí đúng chỗ của nó, đứng sai chỗ gọi la Hãm, đứng đúng chỗ gội là Miếu. Còn có những danh từ khác chỉ sự đúng chỗ như vượng địa, đắc địa, tuy nhiên, miếu địa vẫn là nhất. Đúng chỗ mới lợi, sai chỗ vô ích hoặc bất lợi.
Tỉ dụ : vua Văn Vương bị bắt giam trong tù, Tỉ Can đi thờ vua Trụ.

Toạ – Cứ là gì ?
 Toạ chỉ sao tốt ngồi tại cung nào. Cứ tức chiếm cứ chỉ sao xấu xâm nhập tại cung nào.
Bản phương – Hợp phương – Lân phương là gì ?
 Bản phương là cung chủ yếu ta căn cứ vào đó để tính. Tỉ dụ : Mệnh ở cung Mão thì Hợp phương theo tam hợp thì có Hợi và Mùi.
 Còn Lân phương là cung bên cạnh. Tỉ dụ : Thìn và Dần là lân phương của Mão.
Triều và xung là gì ?
 Sao tốt đóng tại cung khác theo tam hợp và chiếu hướng về cung chủ yếu gọi là Triều. Sao xấu  cùng  một  trường  hợp  trên  gọi  là  Xung.  Riêng  sao  Thái Âm,  Thái  Dương  không  dùng  chữ Triều mà dùng chữ Chiếu. Riêng sao Lộc Tồn và Hoá Lộc không dùng chữ Triều mà dùng chữ Củng.
Giáp – Chiếu – Hiệp là gì ?
 Các sao tốt đóng hai cung bên canh cung mệnh (lân phương) gọi là Giáp. Tỉ dụ : giáp Nhật– Nguyệt, giáp Tả – Hữu.
 Chiếu là sao ở cung đối xung ảnh hưởng tới. Tỉ dụ : Ngọ chiếu Tí, Dậu chiếu Mão hoặc ngược lại.
 Về câu / Chính không bằng Chiếu, Chiếu không bằng Giáp/ không thể áp dụng cho bất cứ sao nào. Tỉ dụ : Thái Âm , Thái Dương cần Chiếu, Tả Phụ, Hữu Bật cần Giáp.

Tứ Yếu – Thập dụ – Bát pháp

Các sao phân phối đóng tại 12 cung, biến hoá vô cùng. Có bốn điểm trọng yếu để phân biệt :
a)       Cát hung – b) Hư thực – c) Chủ khách – d) Cường nhược.
 Cát hung.
 Sao có sao thiện, sao ác ; thiện là cát tinh, ác là hung tinh. Hung hay cát không phải chỉ căn cứ trên tính chất mỗi vị sao mà còn căn cứ trên chỗ đứng của nó đúng hay sai, miếu địa hay hãm địa.
Hư thực thế nào ?
 Sao tốt làm miếu địa mới là thực cát, thực cát thì không hung dù gặp hung cũng chẳng sợ. Sao xấu rơi vào hãm địa mới là thực hung, thực hung thì không cát, dù gặp cát cũng khó lòng giải. Sao tốt ở hãm địa là hư cát, hư cát là không tốt, còn có thể biến cát thành hung. Sao xấu ở miếu địa là hư hung, hư hung là không hung, còn có thể biến hung thành cát.

Chia chủ khách ra sao ?
Lấy các sao ở bản phương lam chủ, các sao tại cung tam hợp hay xung chiếu là khách. Nếu như bản phương không có chính tinh tức không có chủ thì phải mượn sao ở cung xung chiếu làm chủ, các sao cung tam hợp làm khách. Trong trường hợp cả hai cung xung chiếu cùng vô chính tinh thì chỉ lấy sao khách mà luận cát hung.
 Cường nhược đây ý nói cường nhược trong tương quan chủ khách. Khách với chủ đều tốt là khách chủ tương đắc hay khách chủ đều xấu là một bầy bạo ngược thì khỏi phải đặt vấn đề cường nhược. Chủ khách vừa hung vừa cát thì phải xét chủ mạnh hay khách mạnh. Nếu chủ mạnh thì khách theo chủ, nếu chủ yếu thì khách kéo chủ đi. Cát cường cát thắng, hung cường hung thắng.

Thập dụ là gì ?
 là mười điều căn bản cho việc xem số ở mỗi cung cung với cát cung tam hợp và cung xung chiếu :
1.   Bản phương tốt (cát) là / do nội tự cường/ mạnh từ bên trong mạnh ra.
 2.   Bản phương xấu (hung) là /tòng căn tự phạt/ hư từ gốc rễ.
 3.   Cung xung chiếu tốt là /nghênh xuân tiếp phúc/ chờ xuân đón phúc.
4.   Cung xung chiếu xấu là /đương đầu ác bổng/ giơ đầu chịu búa đập.
 5.   Cung tam hợp tốt là /tả hữu phùng nguyên/, lắm chân tay giúp đỡ.
 6.   Cung tam hợp xấu là /tả hữu thụ địch/, địch từ bên phải, bên trái đánh tới.
 7.   Lân phương (cung đằng trước đằng sau) tốt là /lưỡng lân tương phù/ hai bên hàng xóm phù trợ. 8.   Lân phương xấu là /lưỡng nan tương vũ/, hai bên hàng xóm mưu hại.
 9.   Cả bốn cung cùng tốt là /thiên tường vàn tập/, mây ngũ sắc kéo về chầu.
10. Cả bốn cung cùng xấu là /tứ diện sở ca/ bị vây tứ phía không lối thoát.

Bát pháp là tám lối định cách cục khi xem số. Mệnh ai cũng thế, đều có cách cục ví như hình vuông, hình tròn, to nhỏ, đẹp xấu, lành vỡ của đồ vật. Cách cục của số mệnh nói cho hết thì nhiều vô cung nhưng đây dùng lối quy nạp để đưa thành tám lối. Chia ra như sau :
A.  Thành phá tứ pháp : phàm lệnh thân bản phương có sao tốt gặp các sao khác ở cung tam hợp và xung chiếu nếu gặp :
-    Khoa Quyền Lộc Quý thì kể như các cục thành, đáng phê mấy chữ /giao Long đắc vận vũ/ (con rông gập mây nước).
-    Nếu gặp tứ hung Hỏa Linh Dương Đà thì kể như phá cách loại /miêu nhi bất tú/(chỉ nẩy mầm mà không xanh tốt).
-    Nếu vừa gặp tứ hung lẫn tứ cát thì kể như trong thành có phá, chẳng khác chi /bạch khuê hữu điềm/ (viên ngọc trắng bị vết nứt, vết mẻ). Cả tứ hung lẫn tứ cát đều không thi kể là cách chưa thành nhưng không bị phá, chờ xem hạn ra sao giống như /hỗn kim phác ngọc/ (vàng còn lẫn các khoáng chất tạp nhạp, ngọc chưa được lấy khỏi đá).

B.  Cứu Khí tứ pháp : Phàm mệnh thân cung mà các xung cung chiếu tam hợp đều có hung nếu :

-  Gặp Lộc Quí Quyền Khoa là cứu cách, hạn hán lâu ngày được cơn mưa /cửu hạn phùng cam vũ/.

-   Gặp Hoả Linh Dương Đà là khí cách (bỏ đi), cây gỗ mục không thể khắc đẽo gì được, /hử mộc nan điêu/.
 -   Gặp vừa tứ cát vừa tứ hung là vừa cứu vừa khí cách, giống như ăn gân gà /thực kê lặc/.
-  Không gặp cả tứ cát lẫn tứ hung là cách /thủ tàu bảo khuyết/, nấn ná đợi thời.

Chư tinh vấn đáp luận
Các sao trong Tử Vi đẩu số chia làm 3 loại : thiện cát, hung cát và hoà giải. Tuy nhiên,đừng quên rằng sự sắp xếp vị trí của sao trong lá số mới quan trọng về cát hung chứ không phải chỉ căn cứ vào bản chất cố hữu của từng sao vì như đã nói ở trên dịch lý là biến, biến cát thành hung, hung thành cát tuỳ theo mỗi sao ở miếu hay hãm địa. Sách có câu : / Cát tinh nhập miếu tắc vi cát, hung tinh thất địa tắc vi hung/ là nghĩa vậy. Tất sẽ có người thắc mắc hỏi :
/ Nếu phải chờ miếu hãm rồi mới định cát hung, rồi hung biến cát,  cát biến hung thì còn phân định sao thiện cát, hung ác làm gì cho rắc rối ?/.
 Người xưa giảng rằng :
 /Bản chất cố hữu của sao rất cần, nếu ta luận nó qua quan niệm /tính mệnh/ tính thế nào, mệnh sẽ do tính mà thành. Người có nhiều hung tinh mà vinh hiển thường vất vả, gian nan. Người có nhiều cát tinh thường đến với vinh hiển dễ dãi hơn, từ từ và chắc chắn, trong khi hung tinh đắc cách phát dã như lôi, lên như sấm sét thật đấy nhưng cũng phải vượt nhiều hiểm nguy.Xét vị trí xong rồi, điểm quan trọng thứ hai là tiềm hiểu những sao bạn đi cặp với sao chủ. Bạn hư chủ hỏng.
Về khả năng hoá giải cả sao hung lẫn sao cát đều có. Nhưng sao cát thường ở vai trò này nhiều hơn sao hung. Một khi sao hung đã được giáo phó nhiệm vụ hoá giải, nó sẽ thi hành triệt để hơn sao cát.Do những lẽ kể trên, khi luận về các sao phải lưu ý nhiều mặt chỉ sơ một ly sẽ đi một dặm. Tử Vi khác với Tử Bình, ở chỗ cái lý nó tản mạn không có nguyên tắc nhất định, dĩ nhiên, nếu bây giờ được ông Hi Di Trần Đoàn mà nói chuyện trực tiếp thì nguyên tắc nhất định kia tất phải có. Chỉ vì nó tam sao thất bản mất mát hay bị bí truyền nên mất đi đó thôi. Bởi thế xem Tử Bình chỉ cần thuộc lý ngũ hành cho chắc rồi cứ thế luận ra.
 Còn xem Tử Vi thì lý ngũ hành không tìm thấy mấu chốt vững chắc để làm cơ sở bàn luận cho nên phải thuộc từng sao, từng cung, sao nào ở chỗ nào, miếu hãm, đắc địa, bất đắc địa để hạ đoán. Tỉ dụ : Trong chương /Đẩu cốt số tuý phú/ quyển I của Tử Vi đẩu số toàn thư có câu :
/Tham Vũ mộ trung cư, tam thập tải phát phúc/ nghĩa là : Sao Tam Lang, Vũ Khúc đóng tại mộ địa (Thìn Tuất Sửu Mùi) ở mệnh cung thì ngoài ba mươi tuổi mới phát. Rồi ở dưới lại có câu giảng rằng : /Tham Vũ bất phát thiếu niên nhân/ (Sao Tham Vũ đi đôi, tuổi thiếu niên không phát được) .
Câu  phú  trên  đây  dùng  lý  ngũ  hành  âm  dương  nào  mà  giảng  nếu  không  nắm  được  cái nguyên lý ngũ hành đã mang ra áp dụng riêng cho khoa này. Mà cái nguyên lý ấy cho đến nay vẫn chưa thấy ai làm sách giảng ra, sở dĩ vậy là vì nguồn gốc của nó bị thất lạc rồi. Rốt cuộc đoán số trước sau Tử VI chỉ có một chỗ bám vững chắc nhất là các câu phú và những định lý làm sẳn.Có thể ví như định lý tất cả mọi vất đều rơi xuống mà không có lời giảng nguyên nhân rơi xuống của mọi vật là sức hút của trái đất. Dưới  đây  là  tính  chất  của  các  sao  cùng  các  cung  miếu  hãm  của  mỗi  sao  ghi  trong  các chương /Chư tinh vấn đáp luận

SAO TỬ VI
Hỏi :Sao Tử Vi tính chủ những điều gì ?
 Đáp: Tử Vi thuộc hành thổ là vị sao ở ngôi tôn trong các vị sao. Mệnh con người ta trước phải căn cứ vào Tử Vi để từ đấy mà lập ra thành số.
 Tử Vi ở nơi miếu vượng là cực tốt, rơi vào hãm địa là cực hung.Tử Vi cần đi cặp với Phụ, Bật, Thiên Tướng, Xương Khúc, Khôi Việt, Nhật Nguyệt và Lộc Tồn. Ơ ngôi tô đúng miếu địa Tử Vi có thể làm tiêu bách ác chế như các sao hung hãn như Thất Sát, Hỏa Tinh, Linh Tinh. Tử vi có Lộc Tồn lại thêm Nhật Nguyệt tam hợp chiêu thì quý bất khả ngôn.
 Tử vi thiếu Phụ, Bật đồng hành ví như ông vua mất triều thần gọi bằng cô quân, tốt đẹp giảm nhiều lắm. Tử vi gặp toàn sao hung ví như tiểu nhân lấn quyền đuổi quân tử ra đứng đường sẽ trở nên người gian trá bất thiện.
Tử Vi hội Liêm Trinh không thấy tả hữu tướng tá thường làm anh tiểu lại. Tử Vi nên vào cung Mệnh Thân, cung Quan, cung Phúc Đức nếu Tử Vi ngồi tại cung Tật Ach, Nô Bộc là sái, giảm mất uy quyền dù có sự trợ giúp cũng không thành phúc lớn.
Tử Vi đóng vào các cung quan lộc, thân mệnh mà được tam hợp, xung chiếu có Tả Hữu, Thiên Tướng hay Lộc Tồn ngọ Thiên Mã không bị không vong cản trở là quí. Tử Vi mà khuất phục được Thất Sát để dùng Thất Sát làm quyền uy là cách về Võ. Tử Vi nhờ lực Văn Khúc là cách về Văn. Tử Vi ở cung Tài Bạch hay Điền trạch đồng cư cùng Thiên Tướng, Thiên Phủ lại thêm lộc cung và tả hữu hộ vệ tất làm tài phú chi quan. Ơ cung Tử Tức có Tả Hữu thì sinh quí tử, đứng một mình thì cô độc.Hi Di Trần Đoàn tiên sinh viết Tử Vi là đế toà, có thể giáng phúc tiêu tai ở các cung, hoá giải tính ác hư của các sao hung, chế phục Hoả Linh, trị sao Thất Sát, được sự trợ giúp của Tả Hữu, Phủ Tướng đều quyền quí, nếu không được quí thì cũng phú. Bị Tứ Sát xung phá, Tử Vi khả dĩ chống đối đỡ giảm tai hại. Tử Vi gặp Phá Quân tại các cung Thìn, Tuất, sửu, Mùi thì làm tôi bất trung, làm con bất hiếu.Số đàn bà con gái có Tử Vi ở mệnh Tứ Sat xung phá không đến nỗi phải rơi vào cảnh hạ tiện/.
Câu trên đây của Trần Đoàn tiên sinh có đoạn :
/ Tử Vi nhược ngộ Phá Quân tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi chủ vi thần bất trung vi tử bất hiếu/ hơi khác lý thuyết Tử Vi ở nước ta chỉ nói rằng : /Giai bất nhân Phá Quân Thìn Tuất / mà thôi không thấy nói đến Sửu, Mùi đồng thời cho rằng mỗi lần Phá Quân gặp Tử Vi ở Sửu, Mùi Phá Quân bị Tử Vi khuất phục.
 Ngọc Thiềm tiên sinh có câu ca về Tử Vi như sau : Tử Vi nguyên thuộc thổ Quan lộc quan chủ tính Hữu tướng vi hữu dụng Vô tướng vi vô quân Chư cung giai giáng phúc Phùng hung phúc tự thân Văn Xương phát khoa giáp Vũ Khúc thu hoàng ân Nữ nhân hội đế toà Ngô cát sự quí nhân Nhược dữ đào hoa hội Phiêu lãng lạc phong trần Kình Dương toả linh tu Thử thiết cẩu thâu quần Tam phương hữu cát củng Phương tác quí nhân bình Nhược hoàn vô phụ bật Chư ác cộng ẩm lăng Đế vi vô đạo chủ.
Nghĩa là :
 Tử Vi thuộc hành thổ, chủ tinh về quan tước, phải có tướng tá mới hữu dụng, không tướng tá  là  ông  vua  bị  vây.  Nó  khả  dĩ  giáng  phúc  cho  các  cung,  gặp  hung  nó  chống  đỡ.  Đi  với  Văn Xương thì thi đỗ, đi với Văn Khúc dễ có tước vua ban. Nữ mệnh gặp  Tử Vi đi cùng nhiều sao tốt sẽ lấy chồng sang quí. Nếu Tử Vi gặp cùng Đào Hoa, nữ mệnh phiêu lãng phong trần. Tử Vi tụ tập với Kình Dương, Hoả, Linh là chơi  với phường ăn cắp chỉ đi du thủ du thực. Tam phương phải thấy sao tốt hội cùng Tử Vi mới có thể gọi là quí. Thiếu Tả Phụ, Hữu Bật để các ác tính uống rượu lăng nhục chủ là loại vua vô đạo.Tử  Vi  miếu  ở  cung  Dần  Ngọ,  vượng  địa  ở  cung  Thân  Hợi,  Thìn  Tị,  Tí,  Sửu,  Mùi,  Bình thường Mão Dậu. Sao này không có hãm địa vì nó tự giải cứu được.
Những câu phú về Tử Vi ghi trong đẩu số toàn thư gồm có :
 - Tử Vi cư Tí Ngọ, Khoa, Quyền Lộc chiếu tối vi kỳ (Tử Vi ngồi ở cung Tí cung Ngọ được Khoa Quyền Lộc tam phương chiếu tới gọi là cách ngưỡng diện triều đẩu, số rất kỳ lạ) .
-  Tử Vi nam Hợi nữ Dần cung, Nhâm Giáp sinh nhân phú quí đồng. (Sao Tử Vi số con trai đóng tại cung Hợi, số con gái đóng tại cung Dần, những người tuổi Giáp tuổi Nhâm đều phú quí).
-   Tử Vi Mão Dậu Kiếp Không, Tứ Sát đa vi thoát tục chi tăng.(Tử Vi ngồi ở cung Mão cung Dậu bị Tứ   Sat) là Kinh, Đà, Hoả, Linh vây hãm cùng với Kiếp Không chỉ nên đi tu cho thoát tục là tốt hơn cả).
-   Tử Vi Thiên Phủ toàn y phụ bật chi công. (Tử Vi và Thiên Phủ cần dựa vào hai sao Tả Phụ Hữu Bật mới dễ bề phú quí).
-    Tử Phủ đồng cung vô sát tấu, Giáp nhân hưởng phúc chung thân. (Hai sao Tử Vi, Thiên Phủ đồng cung ở Dần và Thân thủ mệnh, những người tuổi Giáp hưởng phúc suốt đời nếu không gặp những sát tinh làm hỗn ).
 -    Tử Phủ đồng cung lâm Tị Hợi nhất triều phú quí song toàn. (Tử Vi, Thiên Phủ ở cùng một cung Tị hoặc Hợi thì được cả giàu lẫn sang).
-   Tử  Phủ  triền  viên,  lộc  phùng  chung  thân  phúc  hậu  chí  tam  công.  (Tử  Vi,  Thiên  Phủ cùng ở Thân hoặc Dần lập mệnh lại thêm các sao tốt khác nhất là sao Lộc Tồn suốt đời phúc hậu, chức đến tam công).
-   Tử Vi, Phụ Bật đồng cung nhất hô bách nặc. (Tử Vi, cùng ở một cung với hai sao Tả Phụ, Hữu Bật gọi một lời trăm người thưa. Nếu Phụ Bật ở tam hợp hay xung chiếu thì không tốt bằng).
-    Tử Phủ hiệp mệnh vi qui cách. (Hai sao Tử Phủ giáp cung mệnh là quí cách).
 -   Tử Phủ Kình Dương tại cự thương. (Tử Vi Thiên Phủ hội với Kình Dương nếu được Vũ Khúc ở cung Thiên Di chiếu sang càng hay, số doanh thương lớn).
 -   Tử Vi, Xương Khúc phú quí khả kỳ. (Tử Vi hội cùng hai sao Văn Xương, Văn Khúc có thể ngồi đợi giàu sang tới).
 -  Tử Lộc đồng cung Nhật Nguyệt chiếu, quí bất khả ngôn. (Tử Vi cùng một cung với Lộc,có Thái Âm , Thái Dương chiếu, đại quí tộc).
-   Tử Vi, Thất Sát, Hoá Quyền phản tác trinh tường. (Tử Vi chế phục Thất Sát lại có Hoá Quyền, công danh hiển đạt).
-   Tử Vi, Phá Quân vô Tã Hữu cát diệu hung ác tế lại chi đồ. (Sao Tử Vi đi với Phá Quân, không thấy có Tả Hữu hay sao tốt là loại ác bá cường hào).
-   Tử Vi, Vũ Khúc, Phá Quân hội Dương Đà khi công hoạ loạn. (Các sao Tử Vi, Vũ Khúc, Phá Quân đi cặp hội với Kình Dương, Đà La, người ưa gây rối, phản bội, chỉ nên buôn bán chớ ham chức vị).
-   Tử Vi, Quyền Lộc ngộ Dương Đà, tuy hoạch cát nhi vô đạo. (Tử Vi mặc dầu có Quyền Lộc chiếu mà gặp Dương Đà sang quí nhưng tâm bất chính).
-   Tử  Vi,  Thất  Sát  gia  không  vong  hư  danh  thụ  ẩm.  (Đi  với  Thất  Sát  lại  gặp  sao  Thiên Không, chỉ có hư danh, hưởng chút tiếng tăm của ông cha lưu cho con cháu).
-   Tử Phá lâm mệnh ư Thìn, Tuất, Sửu, Mùi tái gia cát diệu phú quí kham kỳ. (Đi cặp cùng Phá Quân ở các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi được nhiều cát tinh trợ giúp là số phú quí nhưng lòng gian tham, quỷ quyệt).
-   Tử Phá Thìn, Tuất quân thần bất nghĩa. (Tử Vi, Phá Quân ở hai cung Thìn, Tuất, vua tôi bất nhân bất nghĩa).
-   Tử, Phá, Tham Lang vi chí dâm, Nam nữ tà dâm. (Các sao Tử Vi, Tham Lang, Phá Quân tụ lại với nhau là người đa dâm, trai hay gái tà dâm. Phú nôm của tiền nhân ta có câu : Tử, Tang Tả Hữu hội trung. Có người con gái lộn chồng tìm chẳng hiểu có phải căn cứ ở câu phú chữ ở trên không. Theo các cụ, số con gái Tử Vi thủ mệnh không cần hội ngộ Tả Phụ Hữu Bật. Chữ tang đây là  Tang  Môn,  hay  là  chữ  Tham.  Đó  là  điểm  đáng thắc mắc. Có lẽ chữ Tham đúng hơn vì saoTham Lang trong Tử Vi đẩu số toàn thư là đào hoa tinh).
-  Nữ mệnh Tử Vi, Thái Dương tinh, tảo ngộ hiền phu tín khả bằng. (Số con gái, Tử Vi hay Thái Dương thủ mệnh sớm gặp chồng hiền) .
 -  Nữ  mệnh  Tử  Vi  tại  Dần, Ngọ  Thân  cung  cát  quí  mỹ  vượng  phu  ích  tử,  hãm  địa  bình thường. (Số con gái tử Vi thủ mệnh đóng cung Dần, Ngọ, Thân gặp các sao tốt trợ giúp thì vượng phu ích tử, nếu rơi vào hăm địa bình thường. Nếu Tử Vi đóng ở các cung tí Dậu, Tị Hợi mà gặp Tứ Sát thì không toàn vẹn phúc lộc cả đời) .
 -  Tử Vi cư Ngọ vô Hình Kị, Giáp, Đinh, Kỷ mệnh chí công khanh. (Sao Tử Vi đóng tại cung Ngọ, không gặp sao Thiên Hình Hoá Kị người tuổi Giáp, tuổi Đinh, tuổi Kỷ làm tới công khanh)

SAO THIÊN CƠ

 Hỏi : Thiên Cơ tinh chủ những điều gì ?
Đáp : Sao Thiên Cơ thuộc hành mộc, là nam đẩu tinh, hoá khi sao này là thiện tinh. Nếu đắc địa nó có thể điều chỉnh lẽ thuận nghịch cho số mệnh. Thiên cơ thủ mệnh lại thêm các sao tốt hợp lại dễ thành công, đa mưu túc trí. Bản chất sao này là thiện tâm không ưu điều bất nhân, bất nghĩa cho nên gặp lúc bất đắc chí thường ưa ở ẩn chốn lâm tuyền và dễ say mùi đạo.Nữ mệnh có sao Thiên Cơ gặp hung càng hung, gặp sát càng sát, nếu đi cặp cùng Thiên Lương là người đàn bà tháo vát khéo léo, nội trợ giỏi. Hi Di Trần Đoàn tiên sinh viết :
/ Thiên Cơ ích thọ chi tinh, thủ Thân mệnh cung là người dị thường giao hội cùng các sao thiên Lương, Tả Hữu, Xương Khúc làm quan văn thì thanh hiền, làm vũ chức thì trung lương. Nếu ở hãm địa gặp Tứ Sát xung phá là hạ cách. Thiên Cơ ngộ Thiên Lương, Thất Sát nên tìm đến cảnh  thanh  nhàn  của  tăng  đạo.  Đại  tiểu  hạn  gặp  Thiên  Cơ  sẽ  thay  đổi  công  việc,  lập  cơ  sáng nghiệp. Nữ mệnh Thiên Cơ có nhiều sao tốt củng chiếu vượng phu ích tử, nếu có Quyền Lộc sẽ là mệnh phụ phu nhân, không may mà gặp Kình Đà, Hoá, Kị xung phá thành ra đàn bà hạ tiện khắc phu hại tử /.
Ngọc Thiềm tiên sinh làm bài ca về sao Thiên Cơ như sau :
 Thiên Cơ  huynh đệ chủ Nam đẩu chính diệu tinh Tác sự hữu thao lược Bẩm tính tối cao minh Sở vi tối hảo thượng Diệc khả tác quần anh Hội cát chủ hưởng  phúc Nhập cách cư hàn lâm Cự Môn đồng nhật ví Vũ chức yểm biên đình Diệc yêu quyền phùng sát
Nghĩa là :
Phương khả lập công danh
 Thiên Lương tinh đồng vị
Định tác đạo dữ tăng
 Nữ nhân nhược phùng thử
Tính sảo tất dâm bòn
Thiên Đồng dữ Xương Khúc
Tụ củng chủ hoa vinh
 Thìn Tuất Tí Ngọ địa
 Nhập miếu hữu công danh
 Nhược tại Dần Mùi Sửu
 Thất Sát tinh Phá Quân
 Huyết quang tai bất trắc
Dương Đà cập Hoả Linh
 Nhược dữ chư sát hội
 Tai hoa hữu hư kinh
 Lưỡng hạn làm thử tú
Sự tất hữu biến canh
Thiên Cơ sao của trí tuệ, mưu cơ và nhân nghĩa nên đồng bạn bè thủ túc, làm việc thao lược cao minh, gặp nhiều sao tốt trợ lực nổi ti61ng văn chương, đi cặp cùng sao Cự Môn khả dĩ lên cao với võ nghiệp nhưng Thiện Cơ lại rất cần Quyền Sát công danh mới oanh liệt. Hội cùng sao Thiên Lương dễ chán trần tục ưa miền tăng đạo. Nữ mệnh Thiên Cơ hãm địa chủ dâm bòn, nếu được Thiên Đồng, Xương Khúc thì vinh hoa. Các cung Tí, Ngọ là miếu địa của Thiên Cơ. Bình thường Tị Hợi, Thìn Tuất, hãm địa là Sửu, Mùi ngộ Phá Quân, Tứ Sát, Hoả Linh, Dương Đàdễ xảy ra tai hoạ. Đại tiểu hạn gặp hiên Cơ thì công việc thay đổi /.
Những câu phú về Thiên Cơ ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư gồm có:
-  Cơ lương đồng chiêu mệnh Thân không thiên nghi tăng đạo. (Thân hoặc mệnh gặp Không Vong, Thiên Cơ đơn thủ Thiên Lương chiếu nên đi tu).
-   Cơ lương hội họp thiện đàm binh, cư tuất diệt vi mỹ luận. ( Thiên Cơ hội với sao Thiên  Lương  giỏi  bàn  việc  quan,  số  ông  Mạnh  Tử  cung  thiên  Di  đóng  ở  Tuất  có  hai  sao  Cơ, Lương).

-  Cơ  Lương  thủ  mệnh  gia  cát  diệu  phú  quí  từ  tường.  (Thiên  Cơ,  Thiên  Lương  thủ mệnh thêm các sao tốt, phú quí. Nếu gặp Thiên Hình, Hóa Kị dễ chán mùi thế luỵ).
-  Cơ Nguyệt đông lương tác lại nhân. (Mệnh thân và các cung tam hợp xung chiếu có đủ bốn sao trên đây nếu không có những cát tinh khác trợ lực chỉ làm công chức quèn. Gặp Kiếp Không Hoá Kị xuống hạ cách).
-   Thiên Lương Tham Nguyệt đồng cơ hội, mộ dạ kinh thương vô miên thuỵ. (Các sao Thiên Lương, Thái Âm , Thiên Đồng hội cùng thiên Cơ ngày đêm tảo tần buôn bán, gặp hung tinh tất phải bôn ba).

-  Thiên Cơ gia ác sát đồng cung, cầu du thử thiết. (Cùng ở một cung có quá nhiều ác sát bao vây Thiên Cơ).
 -  Cự hãm Thiên Cơ vi Phá Cách. ( Cự Mộ ở hãm địa gặp thiên Cơ là Phá Cách,  đàn bà mệnh đóng tại Dần Thân Mão Dậu gặp Thiên Cơ, Cự Môn tuy phú quí nhưng dâm dục, hạ tiện).

SAO THÁI DƯƠNG

 Hỏi : Sao Thái Dương chủ những điều gì ?
 Đáp : Thái Dương tinh thuộc hoả, tinh hoa của ban ngày, biểu nghi của tạo hoá. Ơ số mệnh là quí khí của con người năng văn năng vũ. Hội tụ với các sao cát thì giáng phúc trinh tường, hội với các ác tinh thì uổng công phí lực như mậy bị che lấp. Thái Dương cư thân mệnh cung tại miếu địa sẽ sáng rực rỡ cho công danh con người. Hoá khí của sao Thái Dương là vừa Quí vừa Lộc cho nên cung quan lộc mà có Thái Dương cực tốt. Nữ mệnh lấy thái dương làm phu chủ, thêm Thái Âm chiếu nữa thì phú quí toàn mỹ. Sao này đóng tại cung Thân gặp nhiều sao cát thường gần những người cao sang quyền thế. Nếu nó vào cung Tử Tức sẽ sinh quí tử. Vào cung Tài Bạch được trợ lực, giàu có lâu bền. Đại tiểu hạn gặp Thái Dương thêm Tả Hữu khả dĩ dựng nghiệp.Thái Dương bị Hình Kị dễ hư mắt hoặc khắc phụ mẫu. Đại tiểu hạn Thái Dương đa sát tụ tất có mội lo về quan tụng. Thái Dương ở cung Thiên Di thường ly tổ nghiệp đi xa làm ăn.
Hi Di Trần Đoàn tiên sinh viết :
 / Sao Thái Dương trên vòm trời chu chuyển vô cùng ưa Phụ, Bật cần Lộc Tồn, nếu đi cặp với Thái Âm càng đẹp, ghét Cự Môn hãm địa che ánh sáng. Tại miếu vượng địa hội Hoá Lộc, Hoá Quyền gọi quí cách. Được Xương Khúc Khôi Việt tam hợp củng chiếu vào Quan Lộc hay Bài Tạch đại phú quí. Nữ mệnh miếu vượng chủ vượng phu ích tử, nếu gặp sát thì bình thường/.
Ngọc Thiềm tiên sinh có bài ca rằng :
 Thái Dương nguyên thuộc hoả
Chính chủ Quan Lộc tinh
Nhược cư thân mệnh vị
 Bẩm tính tối thông minh
 Từ ái lượng khoan đại
Phúc thọ hưởng hà linh
 Nhược dữ Thái Âm hội
Sàu phát quí vô luận
 Hữu huy chiếu Thân mệnh
 Bình bộ nhập kim môn
 Cự Môn bất tương phạm
Thăng điện thừa quân ân
Thiên viên phùng ám độ
 Bần tiện bất khả ngôn
 Nam nhân tất khắc phụ
 Nữ mệnh phu bất toàn
Hỏa Linh phùng nhược định
 Dương Đà nhãn mục hôn
 Nhị hạn nhược trí thử
 Tất định mại điền viên
Nghĩa là :
 Sao  Thái  Dương  thuộc  hành  hoả,  là  Quan  Lộc  tinh,  ở  cung  Thân  mệnh  bẩm  tính  thông minh, từ ái và khoan hậu đại phúc, đại thọ. Nếu có thêm Thái Âm hội tụ phát quí vô cùng. Anh sáng Thái Dương chiếu vào Thân mệnh dễ đi đến cửa vàng cung điện. Gặp Cự Môn nơi hãm địa lại bần tiện vô tả, nữ mệnh chồng không vẹn toàn. Tứ Sát, Dương Đà, Hoả Linh vây hãm thì bị đau mắt, hạn Thái Dương có Tứ Sát sung phá bán hết gia nghiệp.
Những câu phú về sao Thái Dương ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư gồm có :
-  Thái Dương miếu địa Ngọ, Mão vượng địa Dần, Thìn, Tị, hãm Tuất, Hợi, Tí.
 -  Nhật  chiếu  lôi  môn,  Tí  Thìn,  Mão  địa,  trú  sinh  nhân,  phú  quí  thanh  dương.  (Thái Dương đứng trong cung Tí, Thìn, Mão, Dậu là mặt trời chiếu cửa sấm, người sinh ban ngày phú quí nổi danh).
-  Thai  Dương  cư  Ngọ,  Canh  Tân  Đinh Kỷ nhân phú quí song toàn.  (  Thái  Dương  ở Ngọ cung, người tuổi canh tân đinh kỷ, phú quí song toàn) .
 -  Thái Dương, Văn Xương tại Quan Lộc, hoàng điện triều ban. (Sao Thái Dương gặp Văn Xương tại cung Quan Lộc làm quan trong triều đình, Văn Khúc cũng vậy).
-   Thái Dương, Hoá Kị thị phi nhật hữu mục hoàn thương. (Gặp Hoá Kị, mắt hư đau bất ngờ).
-  Nhật lạc Mùi, Thân tại mệnh vị vi nhân tiên cần hậu lăn. (Mệnh đóng cung Thân,Mùi có sao Thái Dương con người chóng chán, trước chăm chỉ sau lười biếng).
 -  Nữ mệnh doan chính Thái Dương tinh, tảo phối hiên phu tin khả bằng. (Số đàn bà, Thái Dương thủ mệnh đắc định là người đoan chính, sớm lấy chồng hiền).